Sau đay là bảng so sánh sự khác nhau giữa trường công lập và trường tư thục:

Trường công lập và trường tư thục là gì?

Trường công lập là trường học do nhà nước đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất để duy trì hoạt động.

Trường công lập hoạt động theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các hoạt động của trường hoc, chế độ lương, thưởng của giáo viên, khen thưởng thi đua, kỷ luật của học sinh đều phụ thuộc và thực hiện theo quy định thông nhất do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Trường tư thục (trường dân lập, trường ngoài công lập) là trường học được thành lập và điều hành bởi cá nhân, tổ chức trong nước được cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập và tự đầu tư.

Trường tư thục do được cá nhân, tổ chức thành lập và hoạt động riêng theo cơ chế và chủ yếu được đóng góp dựa trên học phí của học sinh, sinh viên và các nhà đầu tư.

Tuy nhiên trường tư thục vẫn là một cơ sở giáo dục do đó cũng phải tuân thủ các vấn đề như chương trình học, đề án tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Nội dung trên chỉ mang tính chất tham khảo

Trường công lập và trường tư thục là gì? So sánh trường công lập và trường tư thục? (Hình từ Internet)

Cấp học phổ thông của các trường công lập và trường tư thục gồm những cấp nào?

Tại Điều 6 Luật Giáo dục 2019 quy định về hệ thống giáo dục quốc dân như sau:

Theo đó, các cấp học phổ thông của các trường công lập và trường tư thục gồm có:

- Giáo dục mầm non gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo;

- Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông;

- Giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác;

- Giáo dục đại học đào tạo trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.

Ngôi trường mới với thiết kế kiến trúc hiện đại, thân thiện với môi trường, ưu tiên các khoảng không gian xanh

Trường mầm non Nam Sài Gòn tiền thân là Trường dân lập Nam Sài Gòn, hoạt động từ năm 1997.

Trường mầm non Nam Sài Gòn mới, được xây dựng cách không xa địa điểm cũ, nằm trong khu đô thị Nam Thành Phố, P.Tân Phú, Q.7, TP.HCM. Ngôi trường mới rộng gần 10.000 m2 với tổng mức đầu tư hơn 70 tỉ đồng bắt đầu hoạt động từ đầu năm học 2023-2024. Đây là trường mầm non công lập, trực thuộc Sở GD-ĐT TP.HCM, đây cũng là trường mầm non công lập tự chủ hoàn toàn tài chính đầu tiên tại TP.HCM.

Tọa lạc ở khu đô thị với cảnh quan xanh mát, hiện đại, giao thông thuận lợi, Trường mầm non Nam Sài Gòn gây ấn tượng bởi thiết kế kiến trúc hiện đại, thân thiện với môi trường thiên nhiên. Gồm một trệt, 2 lầu, trường có đầy đủ các phòng học, phòng học thể dục thể thao, phòng y tế, phòng STEM, phòng học tiếng Anh, hội trường, các phòng chức năng khác… Khu vực nhà bếp, phòng giặt đồ, phòng sấy đồ… được thiết kế rộng rãi, thoáng đãng.

Với sĩ số gần 400 trẻ với 12 lớp học, trường có nhiều phòng học và các phòng chức năng cho các bé được tham gia nhiều hoạt động

Trường cũng có các phòng nghỉ của giáo viên, được trang bị máy tính để thuận tiện cho công việc của các cô. Đặc biệt, các không gian vườn trường, khu vui chơi cho trẻ em ngoài trời được chú trọng để các trẻ được vui chơi, hoạt động gần thiên nhiên, từ đó học được nhiều kỹ năng.

Cô Lê Thị Xuân Thương, Hiệu trưởng Trường mầm non Nam Sài Gòn, cho biết trong năm học 2023-2024 trường có sĩ số gần 400 bé trên 12 lớp học. 56 cán bộ, giáo viên, nhân viên; trong đó 29 giáo viên đều đạt chuẩn.

Xây dựng trường học hạnh phúc lấy trẻ làm trung tâm, ngôi trường thực hiện Chương trình giáo dục mầm non hiện hành, tăng cường cho trẻ tham gia các hoạt động về thể dục thể thao, STEM, làm quen với tiếng Anh, với các môn nghệ thuật… Trong các dịp lễ trong năm như Giáng sinh, Tết Nguyên đán, tết trung thu, Ngày nhà giáo Việt Nam… trường đều tổ chức các ngày hội, có sự tham gia của phụ huynh để cha mẹ cùng vào trường tham gia hoạt động cùng con, từ đó cùng phối hợp với nhà trường trong nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.

Tủ lưu mẫu bữa ăn bán trú công khai tới phụ huynh

Cô Lê Thị Xuân Thương, Hiệu trưởng nhà trường đánh giá, mô hình trường mầm non công lập tự chủ hoàn toàn tài chính có những thuận lợi và đặt ra những yêu cầu cao. Mô hình giúp trường chủ động tính toán về tài chính, đảm bảo thu đủ bù chi, làm sao luôn đảm bảo chế độ cho người lao động, giữ chân giáo viên, người lao động giỏi.

Mô hình tự chủ hoàn toàn tài chính đòi hỏi đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường phải nỗ lực làm sao để phụ huynh tin tưởng, hài lòng, thu hút được phụ huynh.

Ngôi trường với không gian thoáng, kiến trúc hiện đại, an toàn, giúp trẻ mầm non được khám phá nhiều điều

Cô Thương cho biết nhà trường công khai các khoản thu chi tới phụ huynh, các căn cứ pháp lý, để làm sao cho phụ huynh thấy rằng, mức đóng các khoản thu cho con tại ngôi trường này là hoàn toàn hợp lý, đúng cơ sở pháp lý và chi phí phụ huynh đóng cho con là tương xứng với chất lượng đào tạo. Để làm được điều này, hoạt động chuyên môn trong nhà trường phải được nâng cao, kế hoạch giáo dục rõ ràng để phụ huynh thấy được sự lựa chọn của mình cho con học trong ngôi trường này là đúng đắn.

Về bản chất, tự chủ không có nghĩa là tự túc. Đặc biệt trong giáo dục đại học - một lĩnh vực dịch vụ vừa mang tính công ích, vừa mang tính tư ích

TS Lê Trường Tùng phát biểu tại buổi toạ đàm: Tự chủ ĐH và những vướng mắc cần tháo gỡ do Báo Người lao động tổ chức, ngày 12/11.

Phát biểu tại buổi toạ đàm: Tự chủ ĐH và những vướng mắc cần tháo gỡ do Báo Người lao động tổ chức, ngày 12/11, TS TS Lê Trường Tùng, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH FPT cho rằng tự chủ có nhiều cách hiểu khác nhau theo các góc nhìn xã hội, chính trị, pháp luật. Khái niệm tự chủ được đưa vào Luật Giáo dục ngay từ 1998, cũng được đưa vào Luật Giáo dục Đại học (ĐH) năm 2012, nhưng chỉ được cụ thể hóa trong giáo dục ĐH qua triển khai thí điểm 2015-2017, sau đó chi tiết hóa trong Luật Giáo dục ĐH 2018. Từ góc độ quản trị một trường ĐH, tự chủ có thể hiệu theo các cách: “tự quyết” và “tự túc”. Tự chủ khi kèm theo yêu cầu “tự túc” đã mang thêm yếu tố kinh tế chứ không đơn thuần là khái niệm xã hội, chính trị, pháp luật nữa.

Theo TS Lê Trường Tùng, về bản chất, tự chủ không có nghĩa là tự túc. Đặc biệt trong giáo dục ĐH - một lĩnh vực dịch vụ vừa mang tính công ích (tạo nguồn nhân lực trình độ cao nâng cao vị thế cạnh tranh của quốc gia, giảm tệ nạn xã hội - việc phải chăm sóc xã hội thường tập trung vào những người văn hóa thấp), vừa mang tính tư ích (đáp ứng nhu cầu học tập, tạo cơ hội có thu nhập cao hơn cho từng cá nhân) - cho nên giáo dục ĐH đều hoạt động với nguồn thu từ cả công và tư.

Ở Việt Nam, nguồn lực công cho giáo dục ĐH thể hiện qua đầu tư xây dựng cơ bản, qua chi ngân sách hàng năm cho trường công, và hỗ trợ các trường tư qua chính miễn giảm thuế và ưu đãi thuê đất giáo dục, còn nguồn lực tư là đầu tư mở trường từ các thành phần ngoài công lập, và quan trọng nhất cho cả trường công và tư là từ nguồn học phí của người học. Việc chi từ ngân sách cho giáo dục ĐH không chỉ là thực hiện chính sách phúc lợi cho người học, mà thực tế là nghĩa vụ của nhà nước chi cho những gì mà quốc gia được thụ hưởng sau này. Vấn đề hiện nay là ngân sách hạn chế, nên đã lồng nội dung “tự túc” này vào như một điều kiện của tự chủ.

Dù đầu tư từ nguồn nào thì một trong các yếu tổ để đảm bảo chất lượng là chi phi đào tạo/sinh viên phải đủ lớn. Hiện nay mức chi phí trung bình đào tạo ĐH ở Việt Nam dưới 1.000 đô-la Mỹ/năm/sinh viên, chỉ bằng 1/20 chi phí của Úc. Trong các năm tới, Việt Nam cần phải nâng suất đầu tư từ nhiều nguồn lên nhiều lần - chắc phải gấp 5 con số này trong 10 năm tới (tương đương với Thái Lan, và bằng 5-10% Mỹ, Úc hiện nay) để có điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo ở mức tối thiểu. Tự chủ ĐH cần phải góp phần giải quyết vấn đề này. Do ngân sách hạn chế, Việt Nam chỉ có một cách để tăng tổng chi tiêu trung bình là dành nguồn ngân sách cho số ít sinh viên hơn, và có thể thực hiện theo 2 cách: thực hiện lộ trình tự chủ gắn với lộ trình tăng học phí trường công, và tăng tỷ trọng sinh viên trường tư song song với giảm tỷ trọng sinh viên trường công.

TS Lê Trườn Tùng đặt vấn đề là cần xây dựng hành lang pháp lý là việc vay, bảo lãnh nợ vay và trả nợ vay của các trường công tự chủ tài chính (quyền tự chủ trong “thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển” - điều 32.5 Luật Giáo dục ĐH). Vay từ các nguồn (vay ngân hàng, phát hành trái phiếu học đường, vay cán bộ giảng viên…) để đầu tư phát triển trường là một giải pháp để phát triển nhanh, nhưng việc trả nợ (là nợ công vì của trường công) trong tương lai có thể lại là thuộc nhiệm kỳ tiếp sau, và nếu như không trả nợ được thì sẽ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp.

Tự quyết và trách nhiệm giải trình

Tự quyết là quyền tự chủ của các trường ĐH được quyết định các vấn đề về chuyên môn - học thuật, về tổ chức - nhân sự, về tài chính - tài sản trong hành lang pháp lý (“theo quy định của pháp luật”) và các quy định nội bộ khác. Đây là quyền rất quan trọng, khác cơ chế xin cho - được phép mới được làm như trước đây. Luật Giáo dục ĐH năm 2018 chính thức cho các trường ĐH tự chủ trong việc mở ngành, liên kết quốc tế, còn tự chủ trong xác định chỉ tiêu và cách thức tuyển sinh đã thực hiện trước đó.

Chúng ta cũng hay gắn tự chủ với việc bỏ bộ chủ quản. Thực ra việc bỏ bộ chủ quản không phải là bỏ cơ quan quản lý cấp cao hơn, mà thực chất là để tránh tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi trong hoạt động quản lý nhà nước. Thông thường chúng ta cũng hay nói về việc tự chủ và “cởi trói” cho các trường công. Trên thực tế các trường tư cũng không được hoàn toàn “tự trị” căn cứ vào các quy định quản trị nội bộ - bên trên hiệu trưởng là hội đồng trường, bên trên hội đồng trường là đại hội đồng cổ đông.

Một trong những vấn đề thường gây tranh cãi là với việc tự chủ của các trường ĐH, việc “tự quyết” và nguyên tắc “làm những gì không cấm” được hiểu và vận dụng như thế nào, nguyên tắc “làm những gì không cấm” có áp dụng cho các trường ĐH công hay không, nguyên tắc “chưa có hành lang pháp lý chưa được làm” xung khắc với “làm những gì không cấm” như thế nào?

Từ năm 2019, Bộ GD-DT đã yêu cầu các trường công khai Đề án tuyển sinh hằng năm với các thông tin về đào tạo, giảng viên, cơ sở vật chất và tài chính, tiếp nối các Báo cáo 3 công khai trước đây. Đây là một bước tiến tới minh bạch thông tin.

Bước theo của Đề án tuyển sinh hằng năm mà Bộ GD-ĐT đang yêu cầu các trường công bố để phục vụ tuyển sinh - có lẽ chính là Báo cáo Đại học Thường niên, Báo cáo Tài chính ĐH có kiểm toán - việc này sẽ góp phần chuẩn hóa các nội dung quản trị ĐH, tạo sự minh bạch thông tin, cụ thể hóa trách nhiệm giải trình đối với giáo dục ĐH, đặc biệt trong bối cảnh tăng cường tự chủ.