Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hoạt động đề xuất: Duyệt Qua Mặt Phẳng Phức

Tính mô-đun của nhiều số phức khác nhau và quan sát cách mà các phần thực và ảo góp phần vào độ lớn tổng thể của số đó. Hãy cố gắng hình dung các số này trong mặt phẳng phức để hiểu rõ hơn.

Hoạt động đề xuất: Giá Trị Tuyệt Đối Trong Thế Giới Thực

Nghiên cứu và viết một đoạn ngắn về cách giá trị tuyệt đối được sử dụng trong một lĩnh vực bạn chọn, có thể là kinh tế, khoa học hoặc kỹ thuật. Giải thích tại sao khả năng đo các độ lớn mà không cần xem xét hướng đi lại quan trọng trong lĩnh vực đó.

Mở rộng khái niệm giá trị tuyệt đối, mô-đun của một số phức là một phần mở rộng tự nhiên. Một số phức được hình thành từ một phần thực và một phần ảo, và thường được biểu diễn là z = a + bi, trong đó 'a' là phần thực và 'b' là phần ảo. Mô-đun của một số phức, được biểu diễn bằng |z|, được tính như căn bậc hai của tổng của các bình phương của phần thực và phần ảo của nó, nghĩa là |z| = sqrt(a^2 + b^2).

Phép tính này tương tự như việc xác định khoảng cách từ một điểm đến gốc tọa độ trong một mặt phẳng tọa độ. Mô-đun của một số phức rất quan trọng trong nhiều ứng dụng của kỹ thuật và vật lý, đặc biệt trong điện tử và xử lý tín hiệu, nơi các số phức được sử dụng để đại diện cho sóng và dao động.

Ví dụ, trong điện tử, phân tích mạch thường sử dụng số phức để đại diện cho trở kháng và điện áp. Mô-đun của một số phức giúp xác định độ lớn của trở kháng hoặc điện áp, điều này rất quan trọng để hiểu cách mà các mạch sẽ hoạt động trong những điều kiện khác nhau.

Hoạt động đề xuất: Khám Phá Các Độ Lớn

Hãy cố gắng tìm giá trị tuyệt đối của các số khác nhau, cả dương lẫn âm, và liệt kê chúng. So sánh các kết quả để hiểu cách giá trị tuyệt đối biến các số âm thành dương mà giữ nguyên các số dương.

Hoạt động đề xuất: Giải Mã Các Bất Phương Trình

Giải bất phương trình |2x - 6| > 8 và thảo luận về các nghiệm tìm được. Bạn sẽ diễn giải những nghiệm này trong một bối cảnh thực tiễn như các quy định về độ chính xác trong kỹ thuật như thế nào?

Chúc mừng bạn đã khám phá thế giới thú vị của giá trị tuyệt đối và mô-đun! Giờ đây bạn đã hiểu rõ hơn về những khái niệm cơ bản này, bạn đã sẵn sàng để áp dụng chúng trong các tình huống thực tiễn và lý thuyết. Trước buổi học tiếp theo, hãy xem xét các ví dụ và bài tập trong chương này để đảm bảo rằng bạn có thể tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận và hoạt động thực tiễn. Hãy nhớ rằng việc hiểu giá trị tuyệt đối và mô-đun là rất quan trọng không chỉ cho toán học mà còn cho nhiều ứng dụng trong thế giới thực. Trong lớp học, chúng ta sẽ sử dụng những khái niệm này trong nhiều bối cảnh thực tiễn, vì vậy hãy sẵn sàng để khám phá, đặt câu hỏi và áp dụng những gì bạn đã học được. Hãy tiếp tục tò mò và có động lực, vì mỗi thử thách toán học là một cơ hội để cải thiện tư duy phản biện và các kỹ năng giải quyết vấn đề của bạn!

Để hướng dẫn doanh nghiệp khai thuế giá trị gia tăng đối với hàng bán trả lại theo đúng quy định, mới đây, Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn số 1788/TCT-DNL về kê khai thuế giá trị gia tăng đối với hàng bán bị trả lại. Bài viết này trao đổi về nội dung thuế giá trị gia tăng và hàng bị trả lại, kê khai thuế đối với hàng bị trả lại.

Khái niệm thuế giá trị gia tăng và hàng bán bị trả lại

Thuế giá trị gia tăng (GTGT) được áp dụng đầu tiên tại Pháp từ năm 1954. Đây là loại thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Tức là thuế GTGT sẽ đánh vào tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Từ khi còn là nguyên liệu thô cho đến các sản phẩm hoàn thành và cuối cùng là giai đoạn phân phối đến người tiêu dùng. Tuy nhiên, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn. Tổng số thuế GTGT thu được sẽ bằng số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.

Thuế GTGT là loại thuế gián thu, tức là người nộp thuế GTGT cho Nhà nước là do người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT còn người chịu thuế GTGT là người tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cuối cùng. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ đóng vai trò thu hộ tiền thuế GTGT của người tiêu dùng rồi nộp vào ngân sách nhà nước.

Hàng bán bị trả lại là các sản phẩm, hàng hoá đã được bán nhưng do sản phẩm, hàng hoá này vi phạm về phẩm chất, chủng loại, quy cách nên bị người mua trả lại cho người bán. Doanh thu hàng bán bị trả lại là một khoản giảm trừ doanh thu phát sinh trong kỳ. Cuối kỳ sẽ kết chuyển doanh thu hàng bán bị trả lại để xác định doanh thu thuần thực sự phát sinh trong kỳ.

Trình tự hạch toán hàng bán bị trả lại

Là số sản phẩm, hàng hoá doanh nghiệp (DN) đã xác định tiêu thụ, nhưng bị khách hàng trả lại, do vi phạm các điều kiện đã cam kết trong hợp đồng như: Hàng kém phẩm chất, sai quy cách, chủng loại. Giá trị hàng bán bị trả lại sẽ điều chỉnh doanh thu bán hàng thực tế thực hiện trong kỳ kinh doanh để tính doanh thu thuần của khối lượng sản phẩm, hàng hoá đã bán ra trong kỳ báo cáo… Để tiêu thụ hàng hóa trong trường hợp người mua chấp nhận, người bán có thể giảm giá bán lô hàng này.

Nợ TK 111,112, 131: Tổng giá thanh toán

Có TK 5111: Doanh thu bán hàng tăng lên

Có TK 3331: Thuế GTGT bán ra tăng lên

Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán tăng lên

Có TK 154,155, 1561, 157: Trị giá lô hàng xác định được từ giá mua

Ví dụ: Ngày 10/3/N xuất 1.000 thành phẩm tại phân xưởng tiêu thụ trực tiếp, đơn giá thành sản xuất 50.000 đồng, đơn giá bán chưa bao gồm thuế GTGT 10% là 80.000 đồng, khách hàng thanh toán bằng tiền gửi ngân hàng. DN hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.

+ Phản ánh doanh thu hàng bán bị trả lại

Nợ TK 5212: Doanh thu của hàng bị trả lại

Nợ TK 3331: Thuế GTGT đầu ra bị giảm đi

Có TK 111,112,131: Tài khoản liên quan khi bán hàng

+ Phản ánh hàng nhập lại kho bằng bút toán

Có TK 632: Ghi giảm giá vốn bán hàng

Ví dụ: Trong 1.000 thành phẩm tiêu thụ ngày 10/3/N, có 100 thành phẩm bị sai quy cách nên người mua trả lại. DN đã nhập kho và thanh toán lại cho khách hàng bằng tiền mặt.

+ Phản ánh doanh thu hàng bán bị trả lại

+ Phản ánh hàng nhập lại kho bằng bút toán

– Cuối kỳ kết chuyển toàn bộ doanh thu của hàng bán bị trả lại vào tài khoản doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ làm giảm trừ doanh thu:

Có TK 5212: Doanh thu hàng bán bị trả lại

Bút toán kết chuyển doanh thu hàng bán bị trả lại này, kế toán sẽ cộng tổng doanh thu hàng bán bị trả lại phát sinh trong kỳ hạch toán. Với ví dụ trên, nếu trong kỳ chỉ phát sinh 1 nghiệp vụ trả lại hàng như trên, kế toán sẽ hạch toán:

Nếu là công ty có hóa đơn thì cần phải xuất hoá đơn để trả lại hàng cho bên bán (đơn giá xuất phải đúng theo đơn giá mua trên hoá đơn mua vào). Nếu bên mua là cá nhân thì phải có Biên bản ký kết với bên bán về số lượng, giá trị hàng bán bị trả lại.

– Khi mua hàng của nhà cung cấp:

Nợ TK 152, 153, 1561: Giá trị mua vào.

Có TK 111,112: Nếu đã thanh toán

Ví dụ: Ngày 15/3/N mua 100 cái công cụ dụng cụ nhập kho với giá chưa thuế GTGT 10% là 300.000 đồng, chưa trả tiền người bán. DN hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Kế toán định khoản:

– Khi công ty trả lại hàng cho nhà cung cấp:

Nợ TK 331: Ghi giảm công nợ phải trả nhà cung cấp

Có TK 152, 153, 1561: Ghi giảm giá trị lô hàng chưa thuế GTGT

Có TK 1331: Ghi giảm thuế GTGT được khấu trừ

Ví dụ: DN sau khi nhập kho lô công cụ dụng cụ ngày 15/3/N, phát hiện có 10 cái công cụ không đúng quy cách, đã xuất trả cho người bán. Người bán đồng ý và bù trừ công nợ. DN hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Kế toán định khoản:

Kê khai thuế giá trị gia tăng đối với hàng bán bị trả lại

Căn cứ Điều 7 Luật Thuế GTGT số 13/2008/QH12, quy định giá tính thuế như sau: Đối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuế GTGT. Giá tính thuế được xác định bằng đồng Việt Nam.

Trường hợp người nộp thuế có doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu để xác định giá tính thuế.

Đồng thời, theo Điều 14 Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 của Bộ Tài chính, tổ chức, cá nhân mua hàng hóa, người bán đã xuất hóa đơn, người mua đã nhận hàng, nhưng sau đó người mua phát hiện hàng hóa không đúng quy cách, chất lượng phải trả lại toàn bộ hay một phần hàng hóa, khi xuất hàng trả lại cho người bán, cơ sở phải lập hóa đơn, trên hóa đơn ghi rõ hàng hóa trả lại người bán do không đúng quy cách, chất lượng, tiền thuế GTGT.

Người bán phải lập hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ bao gồm các trường hợp hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu; hàng hoá, dịch vụ dùng để cho, biếu, tặng, trao đổi, trả thay lương cho người lao động và tiêu dùng nội bộ (trừ hàng hoá luân chuyển nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất); xuất hàng hoá dưới các hình thức cho vay, cho mượn hoặc hoàn trả hàng hóa.

Trường hợp bên mua là đối tượng không có hoá đơn, khi trả lại hàng hoá, bên mua và bên bán phải lập biên bản ghi rõ loại hàng hoá, số lượng, giá trị hàng trả lại theo giá không có thuế GTGT theo đơn bán hàng (số hiệu, ngày tháng của hoá đơn), lý do trả hàng và bên bán thu hồi hoá đơn đã lập.

Theo Công văn số 5839/CT-TTHT ngày 20/2/2017 của Cục Thuế TP. Hà Nội, đối với trường hợp chi nhánh bán hàng hoá đã lập hoá đơn giao hàng, sau đó khách hàng đã trả lại hàng và lập hoá đơn trả lại thì căn cứ vào hoá đơn trả lại hàng, bên bán và bên mua thực hiện điều chỉnh trên tờ khai thuế GTGT Mẫu 01/GTGT tại kỳ phát sinh hoá đơn trả lại hàng như sau: Đơn vị bán kê giảm vào các chỉ tiêu tương ứng tại Mục II-Hàng hoá dịch vụ bán ra trong kỳ trên Tờ khai 01/GTGT (cụ thể trong trường hợp này hàng hoá trả lại chịu thuế suất thuế GTGT là 10% thì: Điều chỉnh giảm doanh số tại chỉ tiêu (32); Thuế GTGT ghi nhận giảm đưa vào chỉ tiêu (33); Đơn vị mua điều chỉnh doanh số mua tại chỉ tiêu (23); thuế GTGT đầu vào điều chỉnh giảm tại chỉ tiêu (24) và (25).

Khi phát sinh hàng bán bị trả lại sẽ có hai thời điểm là trong cùng một kỳ và khác kỳ.

- Đối với trường hợp khác kỳ thì hoá đơn xuất bán và hoá đơn trả lại hàng kê khai ở hai kỳ khác nhau. Ví dụ: Hoá đơn xuất bán (HĐ 00798) ngày 10/5/2020 với giá bán chưa thuế GTGT 10% là 20.000.000 đồng, số thuế GTGT đầu ra 2.000.000 đồng, (đã kê khai vào tháng 5) và hoá đơn trả lại hàng (HĐ 00887) ngày 20/6/2020 với số thuế GTGT 2.000.000 đồng, giá trị hàng trả lại 20.000.000 đồng (Kỳ kê khai vào tháng 6).

Trong trường hợp trong kỳ chỉ phát sinh một hoá đơn trả lại (tức là chỉ có 1 hoá đơn trả lại, không có hoá đơn đầu ra, đầu vào khác). Như vậy, sẽ kê khai vào kỳ hiện tại (tức tháng 6/2020, theo như ngày trên hoá đơn). Và phải kê khai giảm doanh số và số thuế GTGT nên phải kê khai âm. Bên bán sẽ kê khai âm chỉ tiêu 32 số tiền 20.000.000 đồng và 33 số tiền 2.000.000 đồng. Bên mua sẽ kê khai âm vào chỉ tiêu 23 số tiền 20.000.000 đồng và chỉ tiêu 24, 25 số tiền 2.000.000 đồng.

Nếu trong kỳ phát sinh nhiều hoá đơn (tức là ngoài hoá đơn trả lại, công ty còn có nhiều hoá đơn đầu ra và đầu vào khác). Lúc này cần phải trừ số tiền doanh số và số thuế GTGT của hoá đơn trả lại.

Đối với trường hợp trong cùng một kỳ thì hoá đơn xuất bán và hoá đơn trả lại hàng cùng trong 1 kỳ. Ví dụ: Hoá đơn xuất bán (hoá đơn 007) ngày 10/5/2020 và hoá đơn trả lại hàng (hoá đơn 008) ngày 20/5/2020. Trong trường hợp này, bên bán (bên bị trả lại) sẽ kê khai hoá đơn 007 vào chỉ tiêu 32 và 33 như bán bình thường. Sau đó, kê khai âm (hoặc trừ đi giá trị và tiền thuế) đoá đơn 008 (hoá đơn trả lại hàng) vào các chỉ tiêu 32, 33. Hoặc không cần kê khai hai hoá đơn này nếu trả lại toàn bộ (Vì 2 hoá đơn này tự cấn trừ cho nhau). Đối với bên mua (bên trả lại) sẽ kê khai hoá đơn 007 vào chỉ tiêu 23, 24 ,25 như hoá đơn đầu vào bình thường (nếu đáp ứng điều kiện khấu trừ thuế GTGT). Sau đó kê khai âm (hoặc trừ đi giá trị và tiền thuế) của hoá đơn 008 (hoá đơn trả lại hàng) vào các chỉ tiêu 23, 24, 25.

Như vậy, trong quá trình kinh doanh sẽ không tránh khỏi phát sinh những nghiệp vụ liên quan đến hàng bán bị trả lại. Nếu hàng không đạt yêu cầu trong hợp đồng, do vi phạm về phẩm chất, chủng loại, quy cách nên bị người mua trả lại cho doanh nghiệp bán thì doanh nghiệp bắt buộc phải nhận lại hàng đã tiêu thụ. Do vậy, việc hạch toán cũng như kê khai thuế GTGT của hàng bị trả lại rất quan trọng và DN cần tuân thủ đúng quy định để đảm bảo tránh lời giả lỗ thật trong quá trình hoạt động kinh doanh.

1. Quốc hội (2008), Luật Thuế Gía trị gia tăng số 13/2008/QH12;

2. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 ban hành hướng dẫn Nghị định số 51/2010/NĐ-CP quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;

3. https://lamketoan.vn/cach-hach-toan-hang-ban-bi-tra-lai.html;

4. https://lamketoan.vn/xu-ly-hach-toan-va-ke-khai-thue-hang-ban-bi-tralai-moi-nhat-nam-2019.html;

5. http://www.daotaoketoanhcm.com/thu-vien/huong-dan-chi-tiet-ke-khaithue-hoa-don-hang-ban-bi-tra-lai/.

3. Một số xu hướng chuyển biến chính văn hóa chính trị Việt Nam từ năm 1975 đến nay

Với Đại thắng mùa Xuân 1975 sự nghiệp lâu dài, gian khổ kháng chiến chống giặc ngoại xâm và đấu tranh thống nhất đất nước của dân tộc ta đã hoàn thành. Cả nước bước vào kỷ nguyên mới: hòa bình dựng xây đất nước, xây dựng CNXH, để đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, “bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu” như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.

Nhưng trên chặng đường gần 50 năm qua, dân tộc ta đã phải kinh qua nhiều khó khăn gian khổ, có phần còn gay gắt và phức tạp, nan giải hơn cả thời kỳ trước. Trước hết là chúng ta phải vượt qua hai cuộc kháng chiến nhiều gian khổ, hy sinh, kéo dài hơn 10 năm (1977-1989) chống lại hai thế lực ngoại xâm ở cả hai đầu phía Nam và phía Bắc của Tổ quốc. Cùng với đó là phải nỗ lực vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng của thời hậu chiến, giữa lúc Liên Xô và phe XHCN tiến hành cải tổ thất bại và sụp đổ, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục duy trì lệnh cấm vận, bao vây khắc nghiệt. Từ tháng 12 năm 1986 công cuộc Đổi mới được Đảng ta khởi xướng, nhưng cũng phải mất khoảng 10 để tìm tòi, tháo gỡ khó khăn. Từ khoảng năm 1995 đến nay công cuộc Đổi mới đã ngày một toàn diện, sâu sắc hơn và giành được những thắng lợi quan trọng, với thành thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, Đảng ta đã có thể khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.”[1]

Có thể tóm lược những thành tựu quan trọng nhất mà dân tộc ta đã đạt được trong gần 5 thập kỷ qua là: Một là đảm bảo được độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; Hai là giữ vững và củng cố được chế độ chính trị, đảm bảo đất nước hòa bình, ổn định vĩ mô; Ba là đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt về nhiều phương diện, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng và cơ bản phát triển bền vững; Bốn là chủ động hội nhập thành công với khu vực và thế giới, vị thế và uy tín quốc gia được không ngừng cải thiện; Năm là khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, sự đồng thuận xã hội ngày càng được tăng cường.

Tuy nhiên, những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được chưa thực sự bền vững. Một phần là do những yếu tố quốc tế và thời đại của quá trình toàn cầu hóa, sự phát triển như vũ bão của công nghệ cao, cuộc cạnh tranh gay gắt trên phạm vi toàn cầu ở tất cả các lĩnh vực và sự chống phá của các thế lực thù địch. Một mặt khác là bốn nguy cơ nảy sinh trong quá trình Đổi mới và phát triển đất nước, đó là tụt hậu xa hơn về trình độ phát triển; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Trong một bài phát biểu gần đây nhất, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: “Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; bốn nguy cơ (tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến hoà bình") mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn”.[2]

Chính là trong bối cảnh lịch sử như trên, nền văn hóa chính trị Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc, mạnh mẽ và có cả những diễn biến phức tạp. Chúng tôi xin chỉ ra đây một số xu hướng chuyển biến chính như sau:

3.1.1.Một số chuyển biến của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống và tinh thần dân tộc của nhân dân Việt Nam luôn luôn được coi là yếu tố cốt lõi nhất, quan trọng nhất của văn hóa chính trị Việt Nam xuyên suốt qua các thời kỳ lịch sử, là cơ sở vững chắc cho sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Đây là một chân lý, không ai có thể bàn cãi gì được. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhận định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.”[3]

Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng, giành độc lập và trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, tinh thần yêu nước đã được phát huy cao độ, “kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”[4]

Nhưng khi đất nước đã hết chiến tranh, chuyển sang thời kỳ hòa bình xây dựng, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cần phải được phát huy thế nào?

Đây là một câu hỏi lớn mà trong suốt 5 thập kỷ qua chúng ta chưa nghiên cứu thấu đáo, thực chất là chưa có câu trả lời thỏa đáng. Vì vậy, việc phát huy tinh thần yêu nước của nhân dân trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa đạt hiệu quả cao.

Thực tế là từ sau năm 1989 mục đích, nội dung, phương hướng của chủ nghĩa yêu nước đã có những thay đổi căn bản, và do vậy, chủ nghĩa yêu nước cần có sự thay đổi về hình thức và phương thức biểu hiện và cách thức để thẩm thấu vào các lĩnh vực của đời sống dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn tiếp tục kéo dài những phương thức tuyên truyền và giáo dục tinh thần yêu nước của thời kỳ trước năm 1975. Điều này không hẳn là sai, nhưng càng ngày càng tỏ ra bất cập.

Còn thiếu vắng những luận giải khoa học chắc chắn về nguồn gốc và đặc điểm của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống và chủ nghĩa dân tộc Việt Nam chân chính trong thời đại ngày nay. Cũng chưa có những kiến giải khoa học, thấu đáo về cơ chế tác động và phát huy tác động của tinh thần yêu nước. Ở đây, tư tưởng Hồ Chí Minh lại cho chúng ta những chỉ dẫn quý báu: Người viết: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến.”[5]

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, bổn phận của chúng ta là phải tác động một cách tích cực, khoa học, tạo điều kiện để khơi dậy, phát huy và giúp cho tất cả người Việt Nam biết cách và có điều kiện thể hiện được tinh thần yêu nước trong hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú của mình.

Việc rút gọn vào quan niệm: yêu nước tức là căm thù giặc và tham gia đánh giặc thì không sai, nhưng không còn phù hợp. Một khi đất nước đã hết giặc thì tự đẩy giáo dục yêu nước vào thế bế tắc.

Trong khi đó, còn thiếu vắng những nghiên cứu để người dân hiểu được rằng: dạy con nên người cũng là yêu nước, chấp hành tốt pháp luật cũng là yêu nước, nhặt rác, làm vệ sinh môi trường cũng là yêu nước, “học thật, thi thật, nhân tài thật” cũng là yêu nước, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng cũng chính là yêu nước, bảo vệ và quảng bá tốt hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam cũng chính là yêu nước.

Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa dân tộc chân chính cũng là một chặng đường dài mà trong nghiên cứu lý luận và trong thực tiễn chúng ta còn chưa có ý thức đầy đủ. Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần ‘vị quốc’ của bọn đế quốc phản động”.[6]

Đây là một chỉ dẫn có tính cảnh báo rất cao đối với chúng ta, bởi lẽ từ chủ nghĩa yêu nước rất dễ bị sa vào chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, thậm chí là chủ nghĩa dân tộc cực đoan – một trong những nguyên nhân gây ra nhiều thảm họa của thế giới ngày nay. Bên cạnh tinh thần yêu nước chân chính, cao đẹp, người Việt Nam chúng ta có biểu hiện nào của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ hay không? Việc những cuộc biểu tình của hàng vạn người ở Bình Dương, Vũng Áng xảy ra năm 2014 để phản đối Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng lãnh hải đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nhưng cũng bao gồm của việc tấn công, đập phá các doanh nghiệp nước ngoài cho thấy, chúng ta không thể không cảnh giác với những dấu hiệu vị kỷ, cực đoan nhân danh lòng yêu nước. Và đây cũng chính là một trong những vấn đề mà các thế lực thù địch, “bất đồng chính kiến” ra sức lợi dụng để xuyên tạc, chống phá chế độ của chúng ta.

Việc giáo dục lịch sử lệch lạc, một mực đề cao truyền thống chống giặc ngoại xâm, cố tình che giấu, phớt lờ toàn bộ lich sử của quá trình dân tộc diễn ra ở miền Trung và miền Nam, đặc biệt là bỏ qua nội dung lịch sử của hàng chục cuộc chiến tranh Đại Việt – Champa – Chân Lạp vv đã biến việc dạy lịch sử dân tộc Việt Nam chủ yếu chỉ còn là sự tuyên truyền một chiều cho lịch sử Đại Việt, lịch sử của người Kinh. Đây chính là một nguy cơ nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc vị kỷ rất nguy hiểm.

Rõ ràng là bước chuyển của đất nước từ thời chiến sang thời bình đã khiến cho bản thân chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc Việt Nam có những thay đổi khách quan về mục đích, nội dung, về điểm nhấn nội dung và phương thức biểu hiện. Đây chính là cái chúng ta còn chưa theo kịp để đáp ứng yêu cầu giáo dục tinh thần yêu nước chân chính cho các thế hệ người Việt Nam trong bối cảnh mới của đất nước và của thời đại.

3.1.2.Về định hướng xã hội chủ nghĩa trong văn hóa chính trị Việt Nam

Nước CHXHCN Việt Nam trước sau vẫn là một nước theo chế độ XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Do vậy, ý thức hệ marxist – leninist đóng vai trò rất quan trọng, vừa là nền tảng, vừa là yếu tố định hướng của văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại. Bất cứ biểu hiện nào của sự xói mòn, suy giảm độ bền vững ý thức hệ (ideologische Geschlossenheit) này cũng là nguy cơ đối với chế độ chính trị, là tổn hại đến nền tảng tư tưởng của Đảng và chính là một biểu hiện của diễn biến hòa bình.

Cho đến trước khi chế độ XHCN Liên Xô và các nước ở Đông Âu sụp đổ, định hướng XHCN là một trong những định hướng chủ đạo của văn hóa chính trị Việt Nam, xét trên cả ba chiều cạnh nhận thức (cognitive dimension), tình cảm (affective dimension) và giá trị (evaluative dimension). Nhưng sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình XHCN hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chắc chắn đã có tác động tiêu cực, rất mạnh mẽ đến định hướng này.

Thêm vào đó, khi bước sang thời kỳ Đổi mới, chúng ta không có lựa chọn nào khác là buộc phải “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”, bởi đây chính là tiền đề để đổi mới tư duy lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đó là sự thừa nhận thẳng thắn những sai lầm của đường lối chủ quan, duy ý chí của thời kỳ trước; là sự không phù hợp, thậm chí trở thành vật cản chính của con đường đổi mới và phát triển của đất nước của mô hình CNXH hiện thực kiểu cũ mang nặng tính chất tập trung, quan liêu, bao cấp.

Việc chúng ta từ bỏ tư duy giáo điều, duy ý chí, từ bỏ chế độ tập trung, quan liêu, bao cấp chỉ là sự sửa chữa sai lầm lý luận và từ bỏ một mô hình CNXH hiện thực, chứ không phải là từ bỏ lý tưởng, lý luận và những nguyên tắc chính trị của CNXH. Tuy nhiên, ngoài đội ngũ cán bộ đảng viên có trình độ lý luận chính trị vững vàng thực sự, trừ đội ngũ cán bộ và nhân dân gắn bó máu thịt với chế độ và tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, nhiều bộ phận, nhiều nhóm nhân dân, trong đó có cả một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, và đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay, chưa hiểu rõ và hiểu đúng về điều này.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng cần phải chỉ ra một số nguyên nhân chủ quan.

Một là sự chậm trễ, chưa hiệu quả của công tác nghiên cứu lý luận, nhất là lý luận về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Điều này cũng khó tránh khỏi, bởi sự đổi mới tư duy lý luận luôn cần có thời gian, nhất là cần có sự tổng kết thực tiễn khoa học, đầy đủ để làm cơ sở cho các luận giải về lý luận.

Thứ hai là sự buông lỏng, thiếu sáng tạo, kém hiệu quả của công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị. Điều này có phần bắt nguồn từ nguyên nhân thứ nhất, nhưng đó trước hết là sự bất cập của công tác tuyên truyền, giáo dục. Trong hàng chục năm qua, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, người ta rất ít khi nhắc đến những phạm trù, những “tín điều” của “kho tàng lý luận” ngày trước, như “sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản”, “liên minh công nông”, “cuộc đấu tranh ai thắng ai”, “quá độ lên CNXH”, “chuyên chính vô sản”, “lập trường giai cấp” vv. Chả lẽ những vấn đề đó không còn có giá trị gì để bàn luận, nghiên cứu? Chắc chắn là không. Nhưng vấn đề là chúng ta chưa biết cách cập nhật và luận giải về chúng một cách khoa học, mang hơi thở của đời sống thực tiễn và đủ sức soi sáng cho hoạt động thực tiễn.

Thành tựu to lớn của công cuộc Đổi mới, những bước phát triển thần kỳ của khoa học và công nghệ, những chuyển biến mạnh mẽ của thời đại không những đòi hỏi công tác nghiên cứu, phát triển lý luận marxist – leninist của chúng ta phải vươn đến tầm của thời đại, mà cũng đang cung cấp cho chúng ta những chất liệu thực tiễn và những cứ liệu khoa học chắc chắn để chúng ta hoàn thành tốt nhiệm vụ này.

Việc Đảng ta xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là một hợp phần của “nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” của Đảng, phát động và tổ chức triển khai liên tục cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một thành tựu rất to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần tác động mạnh mẽ đến định hướng văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới.

Sự khẳng định ngày càng rõ ràng ràng, chắc chắn hơn về mục tiêu và đặc trưng của CNXH ở Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”;[7] khẳng định phương châm chính trị: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[8] là những thành tựu lý luận rất quan trọng của Đảng có sức tác động thực tiễn mạnh mẽ đối với định hướng của văn hóa chính trị Việt Nam. Trong đó, sự quán triệt triết lý phát triển bền vững đất nước mang đặc sắc XHCN của Việt Nam, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận giải là điều đặc biệt có ý nghĩa: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”[9] Đây chính là sự cập nhật những nguyên lý của chủ nghĩa Mác mà chính một số nước tư bản phát triển đã và đang vận dụng thành công trong việc xây dựng nhà nước phúc lợi xã hội (Wohlfahrtsstaat) trong bối cảnh chế độ TBCN, như CHLB Đức và một số nước Bắc Âu.

Thực tiễn sinh động của công cuộc chỉnh đốn Đảng, phòng chống tiêu cực và tham nhũng và những nỗ lực xây dựng và thực thi nguyên tắc của nhà nước pháp quyền XHCN, nhất là trong những năm gần đây cũng đưa lại những tác động tích cực, mạnh mẽ đối với định hướng chính trị của văn hóa chính trị Việt Nam, nhất là củng cố thêm niềm tin và thái độ chính trị tích cực của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Từ góc nhìn văn hóa chính trị, có thể thấy rõ hơn những thuận lợi, những khó khăn và nhất là đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn đối với công tác lý luận chính trị của Đảng.

3.1.3.Tác động của cơ chế thị trường, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân để xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại

Nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang phát triển, cho dù là “kinh tế thị trường định hướng XHCN” thì vẫn phải vận hành theo những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường: đó là quy luật cung – cầu, là quy luật cạnh tranh vì lợi nhuận, tức là sự điều tiết và chi phối của các quan hệ lợi ích. Dù có sự điều tiết của nhà nước pháp quyền XHCN hay nhà nước pháp quyền tư sản thì cũng vẫn phải tôn trọng những quy luật nói trên. Bất kỳ sự can thiệp nào trái các quy luật đó, thậm chí bằng cả những biện pháp trái pháp luật như nhóm lợi ích, mafia, chủ nghĩa tư bản lũng đoạn hay tham nhũng chính sách,...thì trước sau gì cũng sẽ không bền vững và buộc phải trở về đúng trạng thái hợp quy luật.

Cơ chế đó của kinh tế thị trường chắc chắn có tác động rất đáng kể đến văn hóa chính trị của dân tộc Việt Nam hiện nay. Đó là những điều hầu như hoàn toàn xa lạ, bị lên án trong thời kỳ trước Đổi mới.

Chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy mạnh mẽ và chịu sự chi phối của quan hệ lợi ích. Đó là điều không tránh khỏi. Mà, chúng ta nhớ rằng, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đòi hỏi. Trong cuộc đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham nhũng hiện nay, Đảng ta cũng luôn luôn yêu cầu chống chủ nghĩa cá nhân.

Vấn đề là trong nghiên cứu cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta chưa bao giờ làm rõ có bao nhiêu loại hình của chủ nghĩa cá nhân, và cái chủ nghĩa cá nhân mà chúng ta cần “quét sạch”[10] là chủ nghĩa cá nhân nào.

Theo nghiên cứu của chúng tôi, “chủ nghĩa cá nhân” có ít nhất ba loại hình, ba phương thức biểu hiện khác nhau, đó là: 1) chủ nghĩa cá nhân vị kỷ (egoism); 2) chủ nghĩa cá nhân cá thể (individualism); và 3) chủ nghĩa cá nhân phong cách (personalism).

Cái mà chúng ta cần phải kiên quyết đấu tranh, phải “quét sạch” chính là chủ nghĩa cá nhân vị kỷ (egoism) “lợi mình hại người”,[11] “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết”[12]. Đây là thứ chủ nghĩa cá nhân mà toàn nhân loại cùng phải chống, vì nó chính “là bệnh chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra nhiều chứng bệnh khác”[13], bao gồm cả bệnh tham nhũng, suy thoái đạo đức cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên ngày nay.

Còn đối với chủ nghĩa cá nhân cá thể (individualism) là cái đối lập với chủ nghĩa tập thể (collectivism) thì trước đây, trong thời kỳ trước Đổi mới, chúng ta cũng coi như đánh đồng với chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, và kiên quyết lên án, bài trừ. Khi đó chúng ta xây dựng CNXH theo mô hình cũ, lấy kinh tế tập thể (với các hình thức hợp tác xã, công tư hợp doanh vv) và kinh tế nhà nước làm nền tảng. Còn trong nền kinh tế thị trường, thì trái lại, chủ nghĩa cá nhân cá thể không nhất thiết bị lên án, bị chống lại, mà thậm chí cần được tạo điều kiện, khuyến khích phát triển. Vì đó chính là nguyên tắc tôn trọng sở hữu tư nhân, tôn trọng sáng kiến cá nhân, lựa chọn cá nhân. Thiếu yếu tố này thì kinh tế thị trường không thể phát triển lành mạnh, mạnh mẽ.

Tuy nhiên, không chỉ chủ nghĩa cá nhân vị kỷ mà cả chủ nghĩa cá nhân cá thể cũng đối lập ở mức độ nhất định với tinh thần cộng đồng (communitarianism) và trách nhiệm tập thể. Vì vậy, ở một số phương diện xã hội hiện đại, dân chủ, nhân văn nhân ái của chúng ta vẫn phải đấu tranh bài trừ những biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa cá nhân cá thể.

Còn chủ nghĩa cá nhân phong cách (personalism) lại là một yếu tố nền tảng của tinh thần nhân văn nhân ái (humanistarianism), của sáng tạo cá nhân, nhất là trong các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật. Thứ chủ nghĩa cá nhân này, xét đến cùng là sự tôn vinh vẻ đẹp, sự sáng tạo và tính nhân bản của con người. Cho nên, trong xã hội hiện đại người ta lại phải ra sức khuyến khích nó.

Tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến chủ nghĩa cá nhân và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân chính là một yêu cầu cấp bách của giới khoa học xã hội Việt Nam, để góp phần xây dựng một nền văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại, chân chính, đáp ứng yêu cầu, như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra: “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức.”[14]

3.4. Tác động của toàn cầu hóa đối với văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại

Trong thời kỳ Đổi mới, đất nước mở cửa, chủ động giao lưu và hội nhập với thế giới toàn cầu hóa. Quá trình này chắc chắn có ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ đối với văn hóa chính trị của dân tộc Việt Nam. Hãy thử kiểm nghiệm xem người Việt Nam đã từng định vị dân tộc mình trong thế giới như thế nào.

Trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm, dân tộc Việt Nam chưa bao giờ rơi vào thế cô độc. Tuy nhiên, cho đến trước thời kỳ cận đại, người Việt Nam chủ yếu định vị dân tộc mình trong hệ luận “đối sánh Nam – Bắc”. Đó một mặt là tinh thần dân tộc tự chủ quật cường “Nam quốc sơn hà, Nam Đế cư”, “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”. Nhưng một mặt khác lại là sự mô phỏng mô hình chính trị và thế ứng xử của đế chế phương Bắc, bao gồm cả việc chấp nhận duy trì mối quan hệ “triều cống – cầu phong”, “nội đế, ngoại vương” để hòa hoãn, né tránh những xung đột không cần thiết.

Đến thời cận đại thì hệ luận “đối sánh Nam – Bắc” suy yếu hẳn, thay vào đó là hệ luận “đối sánh Đông – Tây” trong cuộc đương đầu với chủ nghĩa thực dân phương Tây. Trên các chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội, giải phóng con người, dân tộc Việt Nam đã bổ sung cho hệ luận đó những tư duy chiến lược mới, như “đồng văn, đồng chủng, đồng châu”, “đồng bệnh tương lân” (Phan Bội Châu). Cùng có lúc, để giải thoát dân tộc Việt Nam khỏi vị thế tụt hậu, lớp nhà Nho cấp tiến đầu thế kỷ XX từng đề xuất mở toang cánh cửa, để Việt Nam giao tiếp với toàn thế giới, hội nhập với “mưa Âu gió Á”.

Trên tầm cao đó, Hồ Chí Minh đã mở đường để cách mạng Việt Nam kết nối được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, bằng việc lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức, bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba, và đi đến kết luận: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc chỉ có con đường cách mạng vô sản.

Từ năm 1945 đến năm 1991, sự nghiệp đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta lại diễn ra trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Tuy vậy, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta không bao giờ bó hẹp tình đoàn kết hữu nghị chỉ trong phạm vi phe XHCN, nhờ đó mà cách mạng Việt Nam không chỉ nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các nước XHCN mà còn cả sự ủng hộ, giúp đỡ rất có ý nghĩa của nhân dân tiến bộ toàn thế giới, bao gồm cả nhân dân Pháp, Mỹ, Nhật Bản vv.

Dẫu vậy, cho đến trước năm 1991, hệ luận Chiến tranh Lạnh, với sự chi phối của ý thức hệ và sự phân biệt “địch – ta”, đã có ảnh hưởng rất sâu đậm đối với thế giới quan chính trị và thái độ chính trị của dân tộc Việt Nam.

Sau Chiến tranh Lạnh, “phe ta” trước kia đã sụp đổ, “ba dòng thác cách mạng của thời đại” cũng không còn. Việt Nam phải tìm cách hội nhập với khu vực và thế giới trong khi vẫn phải tiếp tục đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và sự bền vững của chế độ chính trị. Đó là một thách thức sống còn. Và đối diện với thách thức đó, từ góc nhìn văn hóa chính trị, có thể nhận ra những biểu hiện của cả những xu hướng tích cực và xu hướng tiêu cực.

Với phương châm đối ngoại rộng mở, đa phương, đa tuyến, dựa trên triết lý “ngoại giao cây tre”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”, Đảng ta đã lãnh đạo thành công công cuộc chủ động hội nhập với thế giới toàn cầu hóa. Kết quả là chưa bao giờ nước ta có được vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Thành tựu vô cùng to lớn này đã mang lại một sự tự tin mới, niềm tự hào dân tộc chân chính và thái độ ứng xử mới của các thế hệ người Việt Nam mới. Có thể nói, từ người lãnh đạo đến người dân bình thường, từ nhà doanh nghiệp cho đến người lao động, từ các nhà khoa học có trình độ cao cho tới các cháu học sinh sinh viên, ngày nay khi đi ra thế giới đã không còn mặc cảm tự ti về dân tộc ta là dân tộc nhược tiểu, đói nghèo lạc hậu và lệ thuộc, cũng không còn những sự tự huyễn của vị thế “tiền đồn” thuở trước.

Đồng thời, người Việt Nam ở mọi miền đất nước, từ nông thôn tới thành thị, đã dần quen với trạng thái mở cửa và hội nhập của đất nước. Tâm lý vọng ngoại, sính ngoại quá đà hoặc kỳ thị, tranh thủ người nước ngoài cũng đã căn bản được khắc phục. Mỗi năm hàng chục triệu người nước ngoài đến nước ta để công tác, làm ăn, học tập hay đi du lịch đã ghi nhận Việt Nam là đất nước thân thiện, cởi mở, nơi Tổng thống Mỹ hay nguyên thủ của bất kỳ quốc gia nào cũng có thể đi dạo phố mà không lo bị đe dọa an ninh vv. Đó là thành tựu mang đậm dấu ấn văn hóa chính trị mới của dân tộc ta.

Mặt khác, quá trình mở cửa và hội nhập với thế giới toàn cầu cũng không tránh khỏi có những hệ lụy khá nan giải. Dễ nhận ra nhất là xu hướng tiếp nhận xô bồ những sản phẩm, những giá trị văn hóa ngoại lai; là sự du nhập những biểu hiện của lối sống xa lạ với thuần phong mỹ tục của dân tộc; là những hiện tượng gian lận thương mại, xâm phạm an ninh (truyền thống và phi truyền thống) và cả những lệch lạc đáng lo ngại về tư tưởng và định hướng chính trị. Phải nhận chân những biểu hiện và xu hướng này, đánh giá chúng một cách khoa học thì chúng ta mới có những giải pháp ứng phó phù hợp.

Trong khuôn khổ nghiên cứu này chúng tôi mới chỉ có thể đưa ra được những nhận xét và kiến giải bước đầu về những xu hướng chuyển biến lớn của văn hóa chính trị Việt Nam từ sau năm 1975 đến nay. Còn rất nhiều vấn đề mà chúng tôi chưa thể đề cập đến. Những kiến giải của chúng tôi xuất phát từ những chỉ dẫn có tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, đồng thời có tiếp thu, vận dụng ở mức độ nhất định những lý thuyết, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu văn hóa chính trị của một số trường phái khoa học chính trị phương Tây.

Để có được những nhận định, phân tích và kiến giải khoa học “đến nơi đến chốn” về tình hình và xu hướng chuyển biến của văn hóa chính trị Việt Nam thì những khảo sát và tổng kết thực tiễn ở tầm mức đủ lớn là vô cùng cần thiết. Đây là điều mà hiện nay chưa một cá nhân nhà khoa học hay một nhóm nghiên cứu nào có điều kiện thực hiện thành công. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng đây là vấn đề quan trọng đặc biệt, liên quan mật thiết đến sự bền vững của chế độ, đến sự thành bại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nên nhất thiết phải được quan tâm tổ chức thực hiện thành công.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, vậy trước hết và trên hết là phải soi đường về phương diện chính trị, trước khi có thể rọi soi và chiếu sáng ở những lĩnh vực khác./.

Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, ĐHQGHN

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 104.

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 38.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, sđd, tr. 192.

[10] Chữ dùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 546.

[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 66.

[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, sđd, tr. 546-547.

[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 156.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, sđd, tr. 184.